Botulinum độc tố sinh học nguy hiểm đến mức độ nào?

Vi khuẩn Clostridium botulinum sản sinh ra botulinum độc tố sinh học được cho là mạnh nhất hiện nay. Độc tố này trên thực tế mạnh gấp 1 triệu lần chất độc thần kinh gây ra bởi nọc độc từ rắn hổ mang.

Đặc điểm của Clostridium botulinum

Clostridium botulinum
C. botulinum trên kinh hiển vi điện tử

Vi khuẩn C. botulinum là một vi khuẩn Gram dương có hình que, kỵ khí, sinh bào tử, di chuyển được. Hiện đã phát hiện có 4 nhóm ký hiệu từ I – IV. Chúng có khả năng sinh ra độc tố là botulinum. Đây là độc tố sinh học mạnh nhất mà chúng ta từng biết đến hiện nay.

Botulinum là chất độc thần kinh cực mạnh, khi xâm nhập vào cơ thể nó tấn công trực tiếp vào tế bào thần kinh, ngăn chặn sự giải phóng chất dẫn truyền acetylcholine tại các đầu mút thần kinh.

Khi chất dẫn truyền thần kinh không được tạo ra, xung thần kinh sẽ không thể truyền dẫn được nữa. Dẫn đến giao tiếp giữa các tế bào thần kinh không thể thực hiện. Quá trình này làm cho các cơ bị tê liệt. Hay còn gọi là hiện tượng liệt mềm.

Đặc điểm của chất độc Botulinum

Trên thực tế, Botulinum là loại độc tố sinh học mạnh nhất mà nhân loại từng biết đến, trong tự nhiên hoặc do tổng hợp. Chỉ với liều lượng 1,3–2,1 nano g/kg thể trọng độc tố này có thể gây chết người. Tức là mạnh hơn gần 1 triệu lần độc tố từ rắn hổ mang (vốn thuộc loại độc tố thần kinh, với liều gây tử vong là 1,31 mg / kg theo đường tĩnh mạch)

Tất cả có tám loại chất độc loại này đã được xác định được phân bổ theo chữ cái (A – H), một số trong số đó có thể gây bệnh cho người. Chúng có khả năng chống lại sự phân rã của các enzyme được tìm thấy trong đường tiêu hóa. Và cho phép chất độc ăn vào được hấp thụ từ ruột vào máu dễ dàng.

Điều may mắn là, tất cả các loại độc tố botulinum đều bị phá hủy nhanh chóng khi đun nóng đến 100 °C trong 15 phút.

Biểu hiện nhiễm độc botulinum

Ngộ độc botulinum trong thực phẩm: “Các dấu hiệu và triệu chứng của ngộ độc thực phẩm thường bắt đầu từ 18 đến 36 giờ sau khi chất độc xâm nhập vào cơ thể của bạn, nhưng có thể từ vài giờ đến vài ngày, tùy thuộc vào lượng chất độc được ăn vào.

Biểu hiện ngộ độc bao gồm các triệu chứng như (nhìn thấy gấp đôi, nhìn mờ, sụp mí mắt, buồn nôn, nôn mửa và đau quặn bụng, nói lắp, khó thở, khó nuốt,khô miệng, yếu cơ, táo bón. Giảm hoặc không có phản ứng gân sâu, chẳng hạn như ở đầu gối.Khó nuốt hoặc nói, yếu cơ mặt ở cả hai bên mặt.

Ở trẻ sơ sinh Nếu chứng ngộ độc botulinum ở trẻ sơ sinh liên quan đến thực phẩm, chẳng hạn như mật ong, các vấn đề thường bắt đầu trong vòng 18 đến 36 giờ sau khi chất độc xâm nhập vào cơ thể trẻ.

biểu hiện nhiễm độc Clostridium botulinum
Biểu hiện nhiễm độc botulinum

Cách phòng ngừa nhiễm độc Clostridium botulinum

– Vệ sinh làm sạch tủ lạnh, bếp hay những vật dụng lưu trữ thực phẩm.
– Loại bỏ những thực phẩm quá hạn, đồ ăn lưu trữ quá lâu hoặc. Đặc biệt những thực phẩm không rõ nguồn gốc.
– Nấu chín thức ăn
– Sử dụng nước uống hợp vị sinh
-Trường hợp nghi ngờ kèm theo các dấu hiệu ngộ độc cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Clostridium botulinum
Cách loại bỏ độc tố Clostridium botulinum

Chẩn đoán thông thường

Các bác sĩ có thể xem xét chẩn đoán ngộ độc dựa trên biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân, theo cổ điển bao gồm khởi phát cấp tính của bệnh thần kinh sọ hai bên và suy nhược giảm dần đối xứng. Các đặc điểm chính khác của ngộ độc thịt bao gồm không sốt, suy giảm thần kinh đối xứng, nhịp tim bình thường hoặc chậm và huyết áp bình thường, và không có suy giảm cảm giác ngoại trừ mờ mắt.
Tiền sử và khám sức khỏe cẩn thận là điều tối quan trọng để chẩn đoán loại ngộ độc thịt, cũng như loại trừ các bệnh lý khác có phát hiện tương tự, chẳng hạn như hội chứng Guillain-Barre, đột quỵ và bệnh nhược cơ. Tùy thuộc vào loại ngộ độc được xem xét, các xét nghiệm khác nhau để chẩn đoán có thể được chỉ định.

Ngộ độc thực phẩm: phân tích huyết thanh để tìm độc tố bằng xét nghiệm sinh học ở chuột nên được thực hiện vì việc chứng minh độc tố là chẩn đoán.

Ngộ độc vết thương: nên cố gắng phân lập C. botulinum từ vết thương, vì sự phát triển của vi khuẩn có tính chẩn đoán.

Ngộ độc ở người lớn và trẻ sơ sinh: việc phân lập và phát triển C. botulinum từ mẫu phân có tính chẩn đoán. Chứng ngộ độc ở trẻ sơ sinh là một chẩn đoán thường bị bỏ sót trong phòng cấp cứu.

Các xét nghiệm khác có thể hữu ích trong việc loại trừ các tình trạng khác là:

Điện cơ đồ (EMG) hoặc các nghiên cứu về kháng thể có thể giúp loại trừ bệnh nhược cơ và hội chứng nhược cơ Lambert-Eaton (LEMS).

Thu thập protein và máu dịch não tủy (CSF) giúp loại trừ hội chứng Guillan-Barre và đột quỵ.
Khám sức khỏe chi tiết của bệnh nhân xem có phát ban hoặc bọ ve hay không sẽ giúp loại trừ bất kỳ trường hợp tê liệt do bọ ve truyền nào.

Phương pháp điều trị và vắc xin

Trong trường hợp chẩn đoán hoặc nghi ngờ ngộ độc botulinum, bệnh nhân nên nhập viện ngay lập tức, ngay cả khi chẩn đoán và / hoặc các xét nghiệm đang chờ xử lý. Nếu nghi ngờ ngộ độc botulinum, bệnh nhân cần được điều trị ngay bằng liệu pháp kháng độc tố để giảm tỷ lệ tử vong. Việc đặt nội khí quản ngay lập tức cũng được khuyến khích vì suy hô hấp là nguyên nhân chính gây tử vong do ngộ độc thịt.

Tại Canada, hiện chỉ có 3 liệu pháp chống độc có sẵn thông qua Chương trình Tiếp cận Đặc biệt của Bộ Y tế Canada (SAP). ba loại liệu pháp chống độc là: 1) Glaxo Smith Kline loại ba hóa trị ABE, 2) NP-018 (heptavalent) Loại A đến G, và 3) BabyBIG®, Globulin miễn dịch chống ngộ độc đường tĩnh mạch (Người) (BIG-IV) cho bệnh nhi dưới 1 năm tuổi.

Hiệu quả thay đổi trong khoảng từ một đến ba tháng, nhưng với những can thiệp kịp thời, tỷ lệ tử vong do ngộ độc botulinum dao động từ dưới 5 phần trăm đến 8 phần trăm.

Nguồn tham khảo:

  1. a ă Lindström, M; Korkeala, H (tháng 4 năm 2006). “Laboratory diagnostics of botulism.”Clinical Microbiology Reviews 19 (2): 298–314. PMC 1471988PMID 16614251doi:10.1128/cmr.19.2.298-314.2006.
  2. a ă (2010). Chapter 29. Clostridium, Peptostreptococcus, Bacteroides, and Other Anaerobes. In Ryan K.J., Ray C (Eds), Sherris Medical Microbiology, 5th ed. ISBN 978-0-07-160402-4
  3. ^ Doyle, Michael P. (2007). Food Microbiology: Fundamentals and Frontiers. ASM Press. ISBN 978-1-55581-208-9.
  4. ^ Peck, MW; Stringer, SC; Carter, AT. (2011). “Clostridium botulinum in the post-genomic era”. Food Microbiol 28 (2): 183–191. PMID 21315972doi:10.1016/j.fm.2010.03.005.
  5. ^ “Guidance for Commercial Processors of Acidified & Low-Acid Canned Foods”U.S. Food and Drug Administration. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2016.
Hình đại diện của người dùng

trantoan

Trần Xuân Toàn thạc sĩ về sinh hóa , chuyên gia về dinh dưỡng. Tôi đã có 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực dinh dưỡng và chăm sóc cơ thể. Tôi đã khám chữa bệnh và giúp đỡ cho rất nhiều người có thể tự chữa bệnh cho mình chỉ bằng việc thiết lập chế độ dinh dưỡng hàng ngày hợp lý.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *